Sergio Markarian, 30 tuổi, đang là tổng giám đốc của một công ty phân phối nhiên liệu ở Montevideo – Uruguay. 12 năm trước, anh đã từ bỏ ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp để mưu sinh. Nhưng khi xem World Cup 1974, anh nhận ra giấc mơ đời mình vẫn chưa kết thúc. Chứng kiến Hà Lan hạ gục Uruguay, anh chỉ có một khao khát phải trở thành HLV để có thể đảm bảo rằng đất nước của mình sẽ không bao giờ phải gánh chịu điều khủng khiếp mà anh đã chứng kiến ở trận đấu đó. Và đó không chỉ là Uruguay. Người Hà Lan tiếp tục đánh bại Argentina và Brazil với tổng tỷ số 8-1.
Sau này, Markarian đã phải dạy cả Nam Mỹ cách đối phó với Bóng đá tổng lực, thứ được mô tả là ở một vũ trụ khác sau màn trình diễn của Hà Lan tại World Cup 1974. Trong sự nghiệp huấn luyện của mình, Markarian có 7 chức vô địch ở 3 quốc gia Nam Mỹ và vị trí thứ ba tại Copa America cùng đội tuyển Uruguay. Ông có thành công hay không, có thể sẽ tranh cãi nhưng quan trọng hơn là Markarian đã được thúc đẩy để nỗ lực. Ông không phải là người duy nhất được người Hà Lan truyền cảm hứng, ngay cả khi họ để thua 1-2 trong trận chung kết năm đó trước Tây Đức.
Bạn biết Arrigo Sacchi chứ? Thời điểm đó, ông chỉ là một nhân viên bán giày. Ông từng kể lại rằng, có cảm giác chiếc tivi của mình không đủ lớn để đánh giá hết những gì người Hà Lan đang làm và ông quyết tâm tìm ra thứ tương tự. 15 năm sau, ông cách mạng hóa bóng đá Italy và giành được chức vô địch châu Âu đầu tiên trong số 2 chiếc cúp châu Âu với Milan.
Bóng đá thế giới có các đội tuyển khác có thể đã tạo được ấn tượng tương tự, nhưng không đội nào có ảnh hưởng lâu dài đến cách diễn ra trận đấu như Hà Lan tại World Cup 1974.
Một phần, đó là vấn đề công nghệ. Từ Mexico 1970, World Cup đã được truyền hình trực tiếp qua vệ tinh Telstar trên toàn cầu, chiếu những hình ảnh Technicolor của Pele và Tostao, Gerson và Jairzinho, Carlos Alberto và Rivellino đến từng nhà trên khắp thế giới. Nhưng nhiều trận đấu được diễn ra quá muộn đối với khán giả châu Âu. World Cup ở Tây Đức, là buổi chiều và buổi tối ở châu Âu, hoặc buổi sáng và buổi chiều ở Nam Mỹ. Nhiều người đã xem trực tiếp hơn. Và những gì họ thấy là một đội gần như đến từ hành tinh khác với một cường độ áp lực chưa từng có ép lên các đối thủ.
Nếu năm 1970, giữa cái nóng mùa Hè Mexico, các đội bóng tìm cách đá đơn giản, bao gồm cả Brazil, họ tiết kiệm thể lực thì đến năm 1974, giữa cơn mưa dai dẳng ở Tây Đức, sức ép đã quay trở lại. Pressing từng được Anh và Liên Xô áp dụng, nhưng trong tay người Hà Lan, nó đã tạo ra thứ bóng đá có vẻ đẹp phi thường.
Năm 1974 là đỉnh cao của Bóng đá tổng lực. Đó là thứ bóng đá được Vic Buckingham gieo mầm ở Amsterdam, bằng những hạt giống mà ông mang theo từ Tottenham của một HLV khác là Peter McWilliam. Những hạt mầm ấy đã được Rinus Michels nuôi dưỡng từ khi dẫn dắt Ajax vào năm 1965. Ajax đã ba lần vô địch cúp châu Âu trước World Cup 1974. Feyenoord cũng đã giành được một danh hiệu. Bóng đá tổng lực có thể xuất phát từ Anh nhưng chính người Hà Lan “sinh” ra nó.
Với người nghiệp dư, họ chỉ nhìn thấy góc độ trình diễn tuyệt đẹp, phần lớn hiểu đơn giản là việc hoán đổi liên tục các vị trí, cùng tấn công và cùng phòng ngự. Nhưng thực tế thì quá trình dịch chuyển vị trí thực tế chỉ có xu hướng xảy ra trên trục dọc. Trong sơ đồ cơ bản là 4-3-3, hậu vệ phải có thể hoán đổi với tiền vệ cánh phải hoặc tiền vệ cánh phải hiếm khi bước vào giữa sân, chỉ tiến vào giữa.
Việc hoán đổi vị trí không phải là khía cạnh mang tính cách mạng. Rất nhiều đội bóng, từ Schalke đến Uruguay, Independiente đến Hungary, đã làm được điều đó trước đây. Điều khác biệt ở người Hà Lan đó là tư duy thi đấu. Johan Cruyff từng giải thích: Hà Lan không thể sử dụng những cầu thủ Brazil hay Argentina, những người rất khéo léo, trên một mặt sân rộng. Các cầu thủ Hà Lan muốn giảm bớt không gian và xếp mọi người thành một nhóm mỏng. Vì thế chúng tôi tạo ra một thế trận có thể bẫy việt vị đối thủ … từ giữa sân”.
Nghĩa là khi tấn công, cả đội hình Hà Lan gần như tiến lên đến vạch giữa sân. Khi đó, gần 20 cầu thủ chen chúc trong phần nữa sân còn lại. Từng nhóm cầu thủ Hà Lan, 3 hoặc 4 người bắt đầu phối hợp và xé nát các hệ thống phòng ngự đang dẫm chân lên nhau do lùi về quá sâu. Bây giờ người ta hay dùng các từ như Pressing tầm cao, kiểm soát bóng, hoặc tiki-taka để mô tả một phần của Bóng đá tổng lực khi đó.
Năm mươi năm trôi qua, sự hiểu biết đó giờ đây giống như một điều cơ bản của bóng đá đương đại. Các đội bóng mạnh sẽ dồn ép đối phương liên tục bằng cách dâng đội hình lên và phối hợp thật nhanh với quyền kiểm soát bóng tối đa. Cầu thủ đói phương nhận bóng thì ngay lập tức phải chịu áp lực khiến anh ta không thể thực hiện một đường chuyền tiến lên.
Nhưng hãy nhớ, Hà Lan làm điều đó từ 50 năm trước. Tất nhiên có lý do. Người Hà Lan có nền văn hóa tư duy độc lập và cực kỳ sáng tạo trong mọi vấn đề xã hội. Cuộc cách mạn bóng đá khiến Amsterdam đã biến đổi từ thành phố u ám của khói thuốc Camus bên những dòng kênh lặng lẽ, trở thành trung tâm của cuộc cách mạng của giới trẻ. Nhưng năm 1974 đã cụ thể hóa trong tâm trí công chúng ý tưởng về bóng đá Hà Lan nên như thế nào.
Có cảm giác trong những năm gần đây, người Hà Lan muốn đưa bóng đá trở lại năm 1974. Nhất là sau khi đội bóng da cam đầy bạo lực của Bert van Marwijk thua trong trận chung kết World Cup 2010 trước tiki-taka của người Tây Ban Nha. Nhưng không đơn giản: Cả Ronald Koeman, người đã trở lại với cương vị HLV lần thứ hai, và Louis van Gaal đều đã mắc phải sai lầm khi cố gắng áp dụng lối chơi ba trung vệ và 2 hậu vệ cánh, khác xa với sơ đồ 4-3-3 chính thống.
Nhưng thôi, hãy nghĩ bóng đá không phải là tôn giáo. Mùa hè năm 1974 trọng đại đối với bóng đá Hà Lan không phải là một câu chuyện kinh thánh. Khi thế giới chơi trò chơi của bạn, khi nó đã thích nghi và cải tiến nó, cách duy nhất để tiếp tục tiến lên là cải tiến nó tốt hơn. Đó là sứ mệnh của Koeman tại Euro 2024 này. Hãy chiến thắng trước đã, sau đó cứ đưa ra tuyên ngôn.
Theo Hồ Việt (SGGP)